Một trong những nhóm chim thuộc bộ Anseriformes; họ Anatidae là thủy cầm (Waterfowl) gồm một số loài:vịt lai ngan (mule); ngan (moscovy ducks); Vịt (gồm vịt nói chung (common ducks); Ngỗng và thiên nga; Trong số đó loài được thuần hóa từ lâu đời và là nguồn thực phẩm quan trọng cho con người là vịt và ngan. Vì vậy; cần phải có những nghiên cứu về thức ăn và chế độ dinh dưỡng trên vịt, ngan để có những kết quả về chế độ dinh dưỡng phù hợp nhất và giảm thiểu chi phí thức ăn thủy cầm cho người nuôi..
Nghiên cứu đánh giá các giá trị dinh dưỡng
Hiện nay có rất ít nghiên cứu đánh giá giá trị năng lượng của thức ăn cho thủy cầm. Cho đến nay; năng lượng trao đổi của mỗi loài thủy cầm (vịt Bắc Kinh) mới chỉ xác định được khoảng 20 loại thức ăn khác nhau; nhưng số lượng mẫu đánh giá cho mỗi loại thức ăn còn hạn chế nên những số liệu này không đủ tin cậy để sử dụng cho việc xây dựng hệ thống khẩu phần ăn cho các loài thủy cầm. (Olayiowla Adeola, 2006).
Các nghiên cứu để xác định khả năng tiêu hóa hồi tràng thực về các axit amin của thủy cầm lcòn hạn chế hơn nhiều. Theo nghiên cứu của Olyiowla Adeola (2006); chỉ có 7 loại thức ăn (ngô; lúa mạch; phụ phẩm từ bánh mì; khô dầu hạt cải; khô dầu của đậu tương và lúa mì) được xác định được tỷ lệ tiêu hóa được các axit amin nói trên ở vịt Bắc Kinh. Vì vậy; cho đến nay; tất cả các nước trên thế giới đều sử dụng dữ liệu về thành phần và giá trị dinh dưỡng của các loại thức ăn cho gà làm cơ sở dữ liệu để phát triển xây dựng khẩu phần ăn cho thủy cầm.
Nghiên cứu xác định nhu cầu năng lượng trong thức ăn của thủy cầm
Vật nuôi, đặc biệt là gia cầm; có thể điều chỉnh lượng thức ăn hàng ngày tùy theo hàm lượng năng lượng trong khẩu phần ăn; nhưng ngan và vịt có khả năng điều chỉnh đặc biệt vấn đề này.
Pan và cộng tác viên (1981) đã nghiên cứu vịt Tsaiya trong giai đoạn đẻ trứng dựa trên thiết kế thí nghiệm hai nhân tố: (i) Năng lượng với 2 mức (11,92 và 10,08 MJ / kg), và (ii) Năng lượng protein thô với 4 mức (15%, 17%, 19% và 21%) cho thấy tỷ lệ đẻ trứng và trọng lượng trứng bị ảnh hưởng đáng kể bởi sự tăng và giảm của hàm lượng protein thô trong khẩu phần; và không liên quan gì đến mức năng lượng. Nghiên cứu của Shen (1977, 1979) trên vịt lai ngan cũng cho thấy khi cho vịt ăn khẩu phần ăn có mức năng lượng từ 2.600-3.000 Kcal / kg thì tỷ lệ tăng trọng không cải thiện.
Tuy nhiên; hiệu suất chuyển hóa thức ăn tăng lên khi mức năng lượng tăng từ 2.600 lên 3.000 Kcal / kg. Tổng hợp kết quả nghiên cứu của Đại học Purdue Mỹ; Olayowla Adeola (2006) đã đưa ra nhận định rằng: Đối với vịt Bắc Kinh trong giai đoạn khởi động và sinh trưởng; mức năng lượng của khẩu phần không được vượt quá 3.000 Kcal / kg, vì cao hơn mức này sẽ không làm tăng mức năng lượng của vịt như hiệu quả chuyển hóa thức ăn của vịt.
Nghiên cứu xác định nhu cầu protein và axit amin đối với thủy cầm
Cũng như các đối tượng vật nuôi khác; khả năng sử dụng protein khẩu phần của vịt; ngan phụ thuộc rất nhiều vào mức năng lượng ăn vào. Bởi vậy; trong các nghiên cứu xác định nhu cầu protein và axit amin của thủy cầm; năng lượng và protein luôn được đặt trong mối quan hệ tỷ lệ, biểu thị bằng tỷ lệ năng lượng trao đổi (ME)/protein thô (CP) (tính bằng g/kg hoặc tỷ lệ %).
Các kết quả nghiên cứu của Pan và ctv (1981) trên vịt đẻ giống Tsaiya cho thấy; tỷ lệ đẻ và khối lượng trứng đạt cao nhất khi vịt được nuôi dưỡng bằng khẩu phần có mức năng lượng 11.08 MJ/kg và mức protein thô là 19%. Gowd và ctv (1983) cũng khuyến cáo, mức năng lượng và protein thích hợp trong khẩu phần cho vịt Khaki Campbell giai đoạn hậu bị (9 – 20 tuần tuổi) là 2.800 Kcal và 160 g/kg.
Các axit amin là những đơn vị cấu trúc của các protein; nhu cầu protein của động vật dạ dày đơn nói chung và vịt; ngan nói riêng thực chất là nhu cầu axit amin. Trong số các axit amin thì methionine, lysine, threonine và tryptophan là những axit amin giới hạn quan trọng nhất đối với các loài thủy cầm. Trong những năm 1970 và 1980 của thế kỷ trước, đã có nhiều công trình nghiên cứu về nhu cầu các axit amin thiết yếu này của thủy cầm.
Nghiên cứu xác định nhu cầu các nguyên tố khoáng
Những nghiên cứu về nhu cầu Ca và P của vịt đẻ cũng cho những kết quả rất khác nhau. Chen và ctv (1980) đã có thông báo: Vịt Tsaiya giai đoạn đẻ trứng đạt năng suất trứng cao nhất khi được ăn khẩu phần có mức Ca 2,7% và P dễ hấp thu 0,46%. Nhưng Shen và ctv (1985) cũng nghiên cứu trên vịt đẻ giống Tsaiya lại đưa ra kết luận; mức Ca cho năng suất trứng tốt nhất là 2,5%. Chen và ctv (1983) trong một nghiên cứu khác trên vịt Tsaiya giai đoạn đẻ trứng đã kết luận mức Ca thích hợp là 2,9 – 3%.
Khác với các kết quả nghiên cứu trên các dòng vịt chuyên trứng giống Tsaiya; Dean và ctv (1981) đã không phát hiện thấy những ảnh hưởng bất lợi đến năng suất trứng; hiệu quả chuyển hóa thức ăn; độ dày vỏ trứng của vịt Bắc Kinh khi mức Ca khẩu phần giảm đến 1,25%. Nhưng theo Scott và Dean (1991); mặc dù các kết quả nghiên cứu rất khác nhau; nhưng mức Ca 3 – 3,25% là thích hợp đối với các giống vịt chuyên trứng như Tsaiya và Khaki Campbells.
Nguồn: tapchigiacam.vn