Hướng dẫn phòng, trị bệnh giun ở vịt

mất:4 phút, 16 giây để đọc.

Vịt là loài gia cầm được nuôi phổ biến ở nước ta. Bởi vịt không chỉ dễ nuôi, mà chi phí nuôi ít từ đó dẫn đến mang lại hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên ở vịt tồn tại nhiều loại dịch bệnh nguy hiểm điển hình như bệnh giun hay còn được gọi là bệnh u bưới. Bệnh này do ký sinh trùng  Avioserpen Taiwana gây ra. Con ký sinh trùng này thường trú ở dưới da hầu, cổ, đùi,… tạo thành các khối u, dịch hạch rất nguy hiểm. Nếu không có các phương pháp cũng như kỹ thuật chăm sóc vịt thì có thể sẽ dẫn đến chết theo đàn gây bất ổn kinh tế người dân.

Nguyên nhân gây ra bệnh giun

Bệnh giun ở vịt được gây ra bởi Avioserpen Taiwana. Chính điều này làm cho vịt chậm lớn, còi cọc do mất chất dinh dưỡng; đồng thời với những khối u to dưới hầu; cổ chèn ép làm vịt khó thở, khó tiêu hoá, các trường hợp nặng có thể dẫn đến chết. Bệnh thường gặp vào mùa hè, lưu hành ở vùng nhiệt đới Đông Nam Á như Việt Nam, Campuchia; Đài Loan… Hình dạng của chúng giống như những sợi chỉ nhỏ dài khoảng 1,2 – 8 cm, ngang khoảng 0,08 – 0,15 mm, đằng trước và đằng sau thu nhỏ. Giun chỉ ký sinh trong mô dưới da, tập trung ở vùng dưới hai hàm dưới và gây viêm tạo thành các tổ chức với các mô xung quanh thành thực quản và dày lên như một khối u. Với mắt thường ta cũng dễ dàng quan sát thấy từ xa hoặc dùng tay nắn khu vực vùng giữa hai hàm dưới ta cũng có thể thấy cục cứng, có khi chúng chiếm hết cả vùng hầm dưới xuống đến cổ.

bệnh giun ở vịt

Đặc điểm dịch tễ

Lứa tuổi: Vịt có thể mắc bệnh ở mọi lứa tuổi, tuy nhiên thường xuất hiện ở vịt đẻ 3 – 8 tuần tuổi. Tỷ lệ vịt nhiễm ở độ tuổi này có khi chiếm 60 – 80%.

Mùa vụ: Bệnh thường gặp vào mùa hè ở những vùng có nhiệt độ nóng bức; vùng nhiệt đới Đông Nam Á như Việt Nam; Campuchia, Đài Loan… Đây là một căn bệnh dễ gặp khiến vịt chậm lớn; còi cọc do mất chất dinh dưỡng. Cùng với đó là sự ảnh hưởng của những khối u dưới hầu; cổ chèn ép làm vịt khó thở; khó tiêu hóa; các trường hợp nặng có thể dẫn đến chết. Bệnh gây tử vong cho vịt khoảng 10%, nhưng phần lớn là chèn ép vùng họng.

Phương thức lây truyền

Bệnh chủ yếu qua đường ăn uống, chúng ăn các loài giáp xác mà trong cơ thể giáp xác đã có chứa ấu trùng trứng giun chỉ. Khi vào đến ruột, ấu trùng được giải phóng và di hành về vùng cổ; hầu, hàm dưới, ống chân và một số nơi khác của cơ thể để làm tổ và ký sinh. Tại đó, chúng phát triển thành giun trưởng thành tạo ra các bướu; cục mà mắt thường có thể trông thấy.

Triệu chứng

Khi mới phát bệnh vịt có triệu chứng uể oải; chậm chạp và có những biểu hiện phù nề vùng đầu, sưng vùng trán, mắt; sau đó lan dần tới cổ; các bộ phận dưới da; hàm dưới chỗ cuống lưỡi. Sau đó trên da thấy có nhiều cục u nổi lên; chúng to dần tạo thành bướu; lúc đầu các u bướu xuất hiện đầu tiên ở hàm dưới; cổ, tiếp theo là ở hốc mắt; ống chân và một số vị trí khác trên cơ thể. Do các bướu ở hầu; cổ, hốc mắt cứ to dần nên thủy cầm khó thở; ăn uống khó, đi lại chậm chạp và gầy.

Phòng bệnh

Chủ động quan sát vịt dưới 2 tháng tuổi để kịp thời phát hiệu u bướu, có biện pháp điều trị thích hợp. Tránh không chăn thả vịt ở những nơi có nguồn nước bẩn (cống rãnh, ao tù đọng…), nơi có nhiều giáp xác.

Chuồng nuôi phải được thiết kế đảm bảo ấm áp về mùa đông, thoáng mát về mùa hè, đảm bảo vệ sinh, dễ cho ăn, chăm sóc, trao đổi không khí thuận lợi, tránh sự tác động của môi trường xung quanh chuồng nuôi. Nền cao, không gồ ghề, thoát nước tốt, lát gạch hoặc xi măng nhám. Chất độn khô sạch.

Giữ gìn vệ sinh chăn nuôi thú y tốt.

Cho vịt ăn thức ăn chất lượng tốt, đảm bảo không thiu mốc, không chứa độc tố. Không dùng nước ao hồ, sông ngòi hoặc nước giếng có hàm lượng sắt cao cho vịt uống.

Sau mỗi lứa vịt phải dọn vệ sinh chuồng nuôi, cọ rửa sạch sẽ, để khô ráo, sau đó tẩy uế, phun thuốc sát trùng và để trống chuồng 5 – 7 ngày rồi nuôi đợt mới. Nên bố trí nơi cho vịt ăn, uống ở ngoài chuồng để giữ chuồng khô sạch.

Nguồn: tapchigiacam.vn

, ,

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.