Hội chứng giảm đẻ ở gà

mất:4 phút, 0 giây để đọc.

Hội chứng giảm đẻ (Egg Drop Syndrome – EDS) ở gà do virus thuộc phân nhóm Adenovirus III gây ra. Virus không có mối quan hệ huyết thanh học với virus thuộc subgroup I và II. Bệnh có đặc trưng là giảm sản lượng trứng; trứng không có vỏ hoặc trứng có mỏng hơn trứng gà thường. Ảnh hưởng đến năng suất; sản lượng trứng và giảm thiểu hiệu quả kinh tế cho người nuôi.

Tác nhân gây bệnh

Vi rút thuộc phân nhóm adenovirus III là tác nhân gây ra bệnh EDS. Đây là một loại virus mới chưa từng được tìm thấy trong số 11 loại adenovirus đã biết ở gia cầm cho tới nay. Virus này thuộc dòng BC 14; virus 127.

Ðối tượng mắc bệnh

Bệnh xảy ra ở gà đẻ công nghiệp (thương phẩm) và gà đẻ từ 26-35 tuần tuổi (giai đoạn khai thác trứng) làm trứng giống. Thường nhạy cảm hơn đối với gà đẻ trứng nâu

Phương thức lây truyền

Lây truyền theo chiều dọc: Bệnh lây truyền từ đàn gà bố mẹ sang gà con qua trứng bị nhiễm bệnh (trứng bất thường).

Lây truyền theo chiều ngang: Bệnh cũng có thể lây từ gà mắc bệnh sang gà khỏe qua nước uống; thức ăn; dụng cụ chăn nuôi (máng ăn, máng uống…); phương tiện vận chuyển bị nhiễm khuẩn từ phân và các chất bài tiết khác từ gà bị mắc bệnh.

Triệu chứng khi mắc bệnh

Triệu chứng đầu tiên có thể quan sát được là sự đổi màu của vỏ trứng; vỏ trứng bị mất màu và trứng nhỏ. Thứ hai là trứng có vỏ mỏng, vỏ mềm hoặc vỏ không cứng, dị dạng. Bề mặt của trứng có vỏ mỏng thường nhám, sần sùi, trên bề mặt vỏ có nhiều hạt lắng đọng lại.

Tỷ lệ đẻ trứng ở đàn gà giảm đột ngột 20 – 40% (tương đương với 12 – 16 trứng/gà), có khi lên đến 50%, lòng trắng loãng, tỷ lệ ấp nở giảm.

Gà mắc bệnh vẫn ăn uống bình thường, một số con có biểu hiện tiêu chảy nhất thời, mào gà nhợt nhạt (chiếm 10 – 70% trường hợp). Nhìn chung sức khỏe gà không thay đổi nhiều so với trước. Bệnh thường kéo dài khoảng 6 – 12 tuần.

Hội chứng giảm đẻ ở gà

Bệnh tích

Khi mổ khám, quan sát thấy một số biến đổi như: Buồng trứng và ống dẫn trứng bị teo nhỏ; đôi khi tử cung bị viêm, phù thũng; trứng non không phát triển.

Chẩn đoán

Căn cứ vào dấu hiệu lâm sàng của bệnh.

Bệnh rất dễ nhầm lần với một số bệnh như CRD, viêm thanh khí quản truyền nhiễm, viêm phế quản truyền nhiễm. Tuy nhiên, ở các bệnh truyền nhiễm, gà còn kèm theo một số triệu chứng lâm sàng như hắt hơi, thở khò khè, kém ăn, chậm lớn, lông cánh xơ xác mổ khám thì có thể thấy xuất huyết đường hô hấp trên và tích tụ urat trong ống thận làm thận sưng và có màu trắng. Trong khi gà bị hội chứng giảm đẻ vẫn ăn uống bình thường, không chết (trừ khi có kế phát với bệnh khác).

Thực hiện phản ứng huyết thanh học để kiểm tra kháng thể.

Phòng, trị bệnh

Hiện, bệnh chưa có biện pháp điều trị đặc hiệu. Vì vậy, người nuôi cần thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa để có hiệu quả trong việc ngăn chặn bệnh.

Phòng bệnh bằng vaccine: Tiêm phòng cho đàn gà đẻ khi chúng trong giai đoạn 15 – 16 tuần tuổi. Hiện nay trên thị trường có các loại vaccine đơn giá phòng Hội chứng giảm đẻ riêng, cũng như vaccine đa giá phòng 3 bệnh Newcastle (ND), viêm phế quản truyền nhiễm (IB) và hội chứng giảm đẻ (EDS).

Virus lây qua trứng nên có thể áp dụng các biện pháp để phòng bệnh như: Chọn gà giống từ những cơ sở giống chất lượng, không bị nhiễm virus, gà con phải được chọn từ những đàn gà được tiêm phòng cẩn thận; đảm bảo vệ sinh phòng bệnh trong quá trình vận chuyển trứng, quá trình tiêm phòng.

Thường xuyên vệ sinh môi trường chăn nuôi sạch sẽ. Cọ rửa, sát trùng máng ăn, máng uống thường xuyên. Ðịnh kỳ 2 lần/tuần phun các loại thuốc sát trùng, diệt khuẩn để tiêu diệt vi khuẩn gây bệnh tồn tại trong môi trường xung quanh. Cọ rửa, sát trùng máng ăn, máng uống thường xuyên.

Ðảm bảo thức ăn, nước uống phù hợp, đầy đủ dinh dưỡng. Trong quá trình nuôi, định kỳ bổ sung vitamin, khoáng, điện giải nhằm tăng sức đề kháng cho vật nuôi, chống lại stress khi môi trường có sự thay đổi.

Nguồn: tapchigiacam.vn

,

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.